type='text/javascript'/> Suy ngẫm về Công thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 ~ NetBonsai - Hội tụ tinh hoa

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Suy ngẫm về Công thư ngày 14 tháng 9 năm 1958

(VietBonSai.Vn) Không phân biệt mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột, Vn đã thích mèo thì phải thích cả trắng lẫn đen.
Việt Nam đã và đang chuẩn bị mọi chứng cứ có giá trị lịch sử, pháp lý để đưa Trung Quốc ra toà án quốc tế để buộc Trung Quốc phải công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nội dung chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vấn đề trọng tâm cốt lõi vì từ đây sẽ liên quan đến các vùng biển xung quanh, liên quan đến tuyến đường hàng hải quốc tế…
Trong rất nhiều tài liệu, chứng cứ lịch sử pháp lý gốc của Việt Nam và các nước trên thế giới đã thu thập được thì thấy đều thống nhất ở một điều là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Đặc biệt  từ giai đoạn thế kỷ 17 cho đến nay đều được Việt Nam và thế giới ghi nhận một cách khách quan, trung thực bác bỏ thẳng thừng luận điệu sai trái của Trung Quốc. Tuy nhiên có một tài liệu mà Trung Quốc  vớt vát cố bám vào đó coi nó như một cái phao cứu sinh nhằm dựa vào một nguyên tắc gọi là “ estoppel “ để lý sự rằng : “ Trong Tuyên bố ngày 14 tháng 9 năm 1958 thay mặt Chính phủ Việt Nam ( Điều này chưa chính xác vì lúc đó Việt Nam bị chia cắt làm hai miền và có hai chủ thể là Việt Nam dân chủ cộng hoà và Việt Nam cộng hoà ) Thủ tướng Phạm Văn Đồngcông khai thừa nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các đảo ở Nam Hải khác thuộc về Trung quốc “. Ngày 9 tháng 6 năm 2014 Vương Dân, Phó đại diện thường trực Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc đã gửi thư cho Chủ tịch Hội đồng bảo an LHQ kèm theo cái gọilà “ chứng cứ “ Việt Nam thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc . “ Chứng cứ “ này bao gồm Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới  năm 1971…
Để hiểu rõ ràng và đúng đắn vấn đề này chúng ta cần phải hiểu biết rõ Tuyên bố ngày 5 tháng 9 của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa về lãnh hải đã tuyên bố những nội dung gì? Và bức Công thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nội dung ra sao ?
I. Bản Tuyên bố ngày 5 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa về lãnh hải
Bản Tuyên bố ngày 5 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa gồm có 04 điểm. Trong đó điểm 1 nguyên văn bản tiếng Trung được dịch ra như sau: “ Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa bao gồm phần đất Trung Hoa trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Hoa ( tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả ) “.
Bản Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa về lãnh hải ngày 5 tháng 9 năm 1958 dịch ra tiếng Anh do phía Mỹ cung cấp:
Trong một tài liệu thuộc Văn phòng địa lý Vụ Nghiên cứu thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa về lãnh hải ngày 5 tháng 9 năm 1958. Ở Điều 1 nguyên văn được dịch như sau: “ Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 5 tháng 9 năm 1958 là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất  Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ và các đảo khác thuộc Trung Quốc ( tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả ) “.
Ở bản này không thấy có phần liệt kê quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa.
Như vậy giữa hai bản tuyên bố này đã có sự khác biệt, nói cách khác là hình như đã có sự ngụy tạo, thêm bớt, cắt gọt câu chữ, từ ngữ gì đó trong phần liệt kê các quần đảo. Chính từ sự khác biệt này cũng đã thể hiện mưu đồ của Trung quốc là độc chiếm Biển Đông là hoàn toàn có chủ ý. Không thể không nghi ngờ và đặt ra câu hỏi liệu có bao nhiêu Bản Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa về lãnh hải ngày 5 tháng 9 năm 1958 đã có sự thêm bớt phần liệt kê các quần đảo ?
II. Bức Công thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nội dung như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý! Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mọi bề. Chúng tôi xin gửi đồng chí lời chào rất trân trọng “.
III. Thế giới liệu có mắc lừa Trung Quốc ?
Những lập luận của Trung Quốc khi cho rằng bức công thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 Việt Nam  thừa nhận quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc. Họ nói lập lờ chung chung là Việt Nam trong khi đó họ biết rằng ở tại thời điểm đó có hai chính thể là Việt Nam dân chủ cộng hoà và Việt Nam cộng hoà  mà quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại do chính thể Việt Nam cộng hoà sở hữu và quản lý là cố ý đánh lừa mọi người làm cho mọi người hiểu sai bản chất vấn đề.
Về mặt văn bản thì đây không phải là bức Công hàm hay Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà mà đây chỉ là bức thư đơn giản chỉ là để báo tin cho riêng một cá nhân ông Tổng lý (  có vẻ báo tin cá nhân, riêng tư hơn là việc công ) để ông biết là: ghi nhận và tán thành tuyên bố về hải phận 12 hải lý ngoài ra không còn vấn đề gì khác nữa . Sau đó gửi đồng chí lời chào rất trân trọng. Vấn đề cốt lõi nhất ở đây là tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc mà thôi.
Về nội dung Công thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi dành mạch, rõ ràng và tách bạch giữa các chính thể là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tán thành và ghi nhận chứ không phải Việt Nam cộng hoà hay Việt Nam nói chung. Tán thành và ghi nhận ở trong lòng thôi chứ chưa hẳn chúng tôi đã công nhận bản Tuyên bố của Trung Quốc quy định hải phận 12 hải lý, mặt khác việc tán thành và ghi nhận những điểm nào trong khi có đến nhiều điểm khác nhau? Trong cùng một điểm có ghi nhận thì nội dung ghi nhận đến đâu lại là chuyện khác vì phần liệt kê các đảo, quần đảo  và các điểm còn lại trong bản Tuyên bố của Trung Quốc không được Văn thư nhắc đến ( Có chủ  ý tách bỏ ra ) nghĩa là hiện thời tôi chỉ tán thành và tôn trọng những nội dung mà tôi đã viết cụ thể là 12 hải lý còn những vấn đề khác tôi chưa ghi, chưa viết, chưa  đề cấp đến hoặc lúc khác, thời gian khác, bối cảnh khác tôi mới nêu chính kiến của tôi cho nên không thể suy diễn một cách ngộ nhận, phiến diện, đơn phương được. Nếu thấy cần thiết và làm rõ vấn đề thì phía Trung Quốc phải hỏi lại cho rõ chứ không thể áp đặt ý nghĩ, quan điểm chủ quan theo ý mình được , đó là điều hết sức phi lý và vô nghĩa. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc - xin lưu ý là sẽ chỉ thị chứ không phải là đã chỉ thị nghĩa là vẫn ở tương lai sau này có thể làm và cũng có thể không làm và sau thời gian đó Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng không có bất cứ một chỉ thị nào về vấn đề này nữa cho đến khi có Công Ứơc về Luật biển năm 1982 và các tuyên bố về ứng xử tại Biển Đông được quốc tế thừa nhận thì mới ra chỉ thị chăng? Tôi cho rằng đây cũng là một sự cẩn trọng hết sức cần thiết, chu đáo. Ngoài ra còn các phần liệt kê khác như  “ các hải đảo ngoài khơi, đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Hoa ( tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả ) “  không thuộc Việt Nam dân chủ cộng hoà sở hữu và quản lý thì việt Nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyền sở hữu và quản lý của của những chủ thể đó để họ trực tiếp nói lên tiếng nói, quan điểm của chính họ mà không thể nói thay cho họ được.
Sắp xếp theo tiến trình thời gian lịch sử ta thấy giữa bản Công thư 14/9/1958 và Bản Tuyên bố  về lãnh hải năm 1977 và Bản Tuyên bố ngày 12/11/1982 của Chính phủ ta thấy sự khác nhau giữa chủ thể của các văn bản ( Công thư thì đứng tư cách nhân danh cá nhân cá nhân còn Tuyên bố thì chính danh , nhân danh là Chính Phủ nước Cộng hoà XHCNVN) cũng như tính Công khai mang tính pháp quy hợp hiến thế giới phải thừa nhận, nội dung được đề cập trong 3 văn bản trên được nâng cấp và phát triển rộng lớn và cụ thể, rõ ràng hơn nhiều ( Công thư gửi cá nhân thì chỉ để cho cá nhân anh và tôi  biết không có giá trị pháp lý ràng buộc giữa hai nhà nước, hai chủ thể còn 2 bản Tuyên bố sau này để cả thế giới biết ). Sau khi thống nhất đất nước theo nguyên tắc kế thừa từ Việt Nam cộng hoà thì Việt Nam có quyền Tuyên bố  về lãnh hải, thềm lục địa cũng như chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của nước Việt Nam thống nhất. Như vậy nội dung của ba văn bản này đã có sự thống nhất xuyên suốt và nhất quán có tính lịch sử  pháp lý phù hợp với diễn biến tình hình thực tế, thực địa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Bối cảnh lịch sử  và sự ra đời của Công thư 1958
Tháng 8 năm 1958 Trung Quốc tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn dẫn đến khủng hoảng eo biển đài Loan lần thứ 2, Mỹ đã điều động Hạm đội 7 đến để hỗ trợ, bảo vệ đài Loan, bảo vệ đảo Kim Môn, đảo Mã Tổ. Trước sự kiện Hạm đội 7 Mỹ tiến vào Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã ra tuyên bố quốc tế về hải phận 12 hải lý ( trong khi Mỹ đề xuất 3 hải lý ) kể từ đất liền trong đó có đảo Đài Loan. Cũng trong lúc này tại miền Nam Việt Nam Mỹ đang xây dựng, củng cố chế độ Ngô Đình Diệm thiết lập chính thể Việt Nam Cộng hoà theo nhận định trong thời gian tới rất có thể Mỹ sẽ tìm cách kiếm cớ trực tiếp nhảy vào tham chiến tại Việt Nam . Đó là một nguy cơ rất lớn đang cận kề.
Trong bối cảnh đó bức Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 15 tháng 8 năm 1958 là một bước ngoại giao tế nhị, sáng suốt và khôn khéo, thông minh bởi chỉ cần một bức thư mang tính cá nhân không mang tính pháp lý (Không phải Tuyên bố hay Công hàm… ) vừa thân tình, gần gũi, tình cảm đồng chí anh em có thể giải quyết đáp ứng mọi đòi hỏi tất cả các vấn đề trước mắt cũng như lâu dài  tranh thủ được Trung Quốc và các nước toàn trên thế giới đoàn kết, ủng hộ về mọi mặt, mọi nguồn lực để thống nhất đất nước mà chính phủ, đất nước không phải ràng buộc, lệ thuộc. Việc tán đồng , tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc vừa là ủng hộ Trung Quốc nhưng cũng  gián tiếp khẳng định hải phận 12 hải lý của Việt Nam vì biết đâu Hạm đội 7 Mỹ cũng sẽ tiến vào hải phận của Việt Nam – đúng như sau này Hạm đội 7 Mỹ đã tiến vào Vịnh Bắc Bộ và nguỵ tạo nên Sự kiện Vịnh Bắc Bộ tạo cớ cho quân xâm lược Việt Nam.
Lá thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi người đồng cấp Chu Ân Lai năm 1958 không phải Công hàm như Trung Quốc suy diễn và cũng không có chữ nào đề cập tới “Tây Sa”, "Nam Sa"
Sự khác biệt giữa Công thư 1958– Tuyên bố 1977, 1982
Thủ tướng Phạm Văn Đồng giữ cương vị thủ tướng Việt Nam 32 năm nhưng tại sao cũng là nội dung liên quan đến hải phận, biển đảo nhưng Thủ tướng lại xử lý khi là Công thư gửi cá nhân ( 1958 ),  sau này là các bản Tuyên bố ( 1977, 1982 ) là phải có cái lý sâu sa  của nó chứ không phải ngẫu nhiên như vậy. Bởi Thủ tướng Phạm Văn Đồng hiểu quá rõ về nhà cầm quyền Trung quốc bởi vì thời gian trước khi gửi Công thư 1958 đó là vào năm 1951 Hội nghị các nước đồng minh sau Thế chiến hai tổ chức tại San Francisco (Mỹ), 46/51 quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến nào khác của các quốc gia tham dự. Cho nên Công thư chỉ ghi cụ thể  một nội dung duy nhất là tán thành và tôn trọng hải phận 12 hải lý là hoàn có chủ ý . Không thể có chuyện công nhận Hoàng Sa và Trường sa là của Trung Quốc như phía Trung Quốc xuyên tạc. Trung Quốc đang chơi trò mèo trắng mèo đen lộn sòng Hay như người Việt Nam thường nói " Thằng chết cãi thằng khiêng ".
Ngày 12 tháng 5 năm 1977 đã có bản Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Ngày 11 tháng 12  năm 1982  Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam khẳng định rõ về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vẫn con người đó, vẫn cương vị đó nhưng sự sử lý tinh tế, khôn khéo, sáng suốt, tinh tế theo thời điểm của lịch sử cũng như Bác Hồ đã sáng suốt ký Hiệp định Sơ bộ 8/3/1946  đẩy lui mấy chục vạn quân Tưởng Giới Thạch về nước không tốn một viên đạn đồng thời có đủ thời gian cần thiết chuẩn bị lực lượng chiến đấu với quân Pháp khi đất nước còn non trẻ.  Thế hệ chúng tôi từng đã nghe mọi người lưu truyền câu " Văn Đồng, Võ Giáp, Lý luận Trường Chinh " để thấy được sự xuất sắc của thế hệ học trò do Bác Hồ lựa chọn, đào tạo và rèn luyện.  Thủ tướng Phạm Văn Đồng  đã có sự cân nhắc,   lựa chọn là Công thư theo kiểu cá nhân gửi cho cá nhân mà không sử dụng Công hàm hoặc bản Tuyên bố  với cách hành văn không mất lòng người bạn lớn nhưng vẫn bảo toàn chủ quyền biển đảo tập trung cho đại cục giải phóng miền Nam thống nhất đất nước . Đại tướng Võ Nguyên Giáp thức trắng đêm để ra quyết định lịch sử đầy trách nhiệm cá nhân kéo pháo ra  và đánh chắc tiến chắc để giành thắng lợi ở điện Biên Phủ .
Dù Trung quốc có lý sự gì đi nữa thì Việt Nam trước sau kiên trì và kiên quyết khẳng định rõ ràng rằng: Công thư ngày 15 tháng 9 năm 1958 là bức thư gửi cho cá nhân Ông Tổng lý mang tính cá nhân riêng tư không có giá trị pháp lý.
Thừa nhận những nội dung được ghi đầy đủ, rõ ràng và cụ thể: Đó là tán thành và tôn trọng  hải phận 12 hải lý.
Bản Tuyên bố của Trung Quốc có nhiều điểm với nhiều nội dung nhưng  chỉ tán thành  nội dung duy nhất đã ghi cụ thể là tán thành và tôn trọng hải phận 12 hải lý. Những nội dung khác không ghi nghĩa là bác bỏ, không tán thành vì nếu tán thành tất cả các nội dung thì Công thư sẽ phải ghi một cách đầy đủ là  Tán thành và ghi nhận Hoàn Toàn bản Tuyên bố của Trung Quốc .
Hoặc Tán thành và ghi nhận Toàn văn bản Tuyên bố của Trung Quốc.
Trung quốc giải thích thế nào khi dùng từ Giải phóng Trung Quốc và giải phóng hoàn toàn Trung quốc ?

Xin kể  câu chuyện sau để thay lời kết:
Có một câu chuyện như sau Trung Quốc đưa cho Việt Nam xem một bó đũa có 100 chiếc đũa và hỏi Việt Nam có thích đũa không.  Việt Nam nói chỉ thích 12 cái đũa   . Theo cái lý của Trung Quốc thì Việt Nam cứ phải thích cả 100 cái đũa - Đúng là cái lý của Đại Hán, Đại Hán thích thế nào thì Việt Nam phải thích như thế.
TQ: Có hai con mèo là mèo trắng và mèo đen . Hỏi có thích mèo không?
VN Trả lời: Có thích mèo trắng.
TQ:  Mèo trắng mèo đen không phân biệt miễn là bắt được chuột, Vn đã thích thì phải thích cả trắng lẫn đen. Phải thích cả hai.
VN????????????????????!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
HN - Diên Hồng - VN


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã quan tâm
-----
Tôi yêu Việt Nam !